Từ 6 tuổi trẻ bắt đầu đi học, việc cung cấp dinh dưỡng cho trẻ qua thực phẩm hàng ngày không chỉ giúp trẻ phát triển thể chất mà còn cung cấp năng lượng cho trẻ học tập. Vì vậy, việc ăn uống hợp lý ở lứa tuổi này có thể giúp trẻ thông minh, khỏe mạnh và phòng chống bệnh tật.
Vai trò của dinh dưỡng hợp lý đối với sự phát triển của trẻ em lứa tuổi tiểu học rất quan trọng với sự phát triển toàn diện ở trẻ. Ở độ tuổi này; cơ thể và trí não bắt đầu trải qua giai đoạn rất quan trọng đối với sự phát triển thể chất và trí não của trẻ.
Về mặt thể chất; đây là giai đoạn não bộ còn nguyên vẹn; trẻ có thể học hỏi được rất nhiều thứ nên năng lượng cần thiết cho việc học cũng được tăng lên. Tuy cơ thể trẻ chậm phát triển về cân nặng và chiều cao; không còn phát triển nhanh như những năm đầu sau sinh nhưng đây là giai đoạn cơ thể trẻ tích lũy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết. Vì đây đang trong giai đoạn phát triển nhanh thứ hai của tuổi vị thành niên nên các phương pháp cung cấp dinh dưỡng cho trẻ cần được cân nhắc kỹ lưỡng.
Về mặt tâm lý, giai đoạn này trẻ bắt đầu gia nhập vào cuộc sống xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau. Trẻ được gia đình và xã hội nhìn nhận dưới một vị thế khác – xem như trẻ đã trưởng thành hơn; đòi hỏi trẻ tự lập hơn. Ở tuổi này trẻ thường có thêm em nhỏ nên tâm lý trẻ có những chuyển biến quan trọng; phát sinh những nhận thức và hành động có thể ảnh hưởng quan trọng đến hành vi dinh dưỡng.
Trẻ béo phì đang có xu hướng gia tăng
Ở lứa tuổi này, nếu cho trẻ ăn uống quá mức sẽ dẫn đến thừa cân và béo phì; tình trạng này đang có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây; nhất là ở các thành phố lớn. Ngược lại nếu ăn không đủ trẻ sẽ bị còi cọc; hay ốm đau; bị thiếu máu hay buồn ngủ; ngủ gật trong giờ học dẫn đến học kém và chán học.
Nhưng ở lứa tuổi này; nếu cho trẻ ăn uống quá mức sẽ dẫn đến thừa cân và béo phì; tình trạng này đang có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây; nhất là ở các thành phố lớn. Ngược lại nếu ăn không đủ trẻ sẽ bị còi cọc; hay ốm đau; bị thiếu máu hay buồn ngủ; ngủ gật trong giờ học dẫn đến học kém và chán học.
Chú ý: Nếu không có điều kiện chế biến nhiều loại món ăn trong một ngày thì có thể tính lượng đạm của trẻ như sau: Cứ 100g thịt nạc tương đương với 150g cá hoặc tôm; 200g đậu phụ; 2 quả trứng vịt hoặc 3 quả trứng gà. Nếu ăn các loại bún; miến, phở, khoai, ngô, sắn thì phải giảm bớt lượng gạo đi.
Chế biến thức ăn cho trẻ như thế nào?
Lứa tuổi này trẻ đã hoàn toàn ăn cùng với gia đình, tuy nhiên các bà mẹ cần lưu ý một số điểm sau:
– Cho trẻ ăn no và nhiều vào bữa sáng (để tránh ăn quà vặt ở đường phố; hoặc một số trẻ ăn quá ít; nhịn sáng sẽ ảnh hưởng đến kết quả học tập; thậm chí hạ đường huyết trong giờ học).
– Nên cho trẻ ăn nhiều loại thực phẩm khác nhau; tránh ăn một vài loại nhất định.
– Khuyến khích trẻ ăn nhiều rau; để tránh táo bón; đồng thời cung cấp nhiều vi chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển của trẻ.
– Ăn đúng bữa; không ăn vặt; không ăn bánh, kẹo, nước ngọt trước bữa ăn
– Không nên nấu thức ăn quá mặn; tập thói quen ăn nhạt.
– Không nên ăn quá nhiều bánh kẹo; nước ngọt vì dễ bị sâu răng. Ðến bữa ăn nên chia suất ăn riêng cho trẻ; để tránh ăn quá ít hoặc quá nhiều.
– Tập thói quen uống nước kể cả khi không khát; lượng nước nên uống một ngày 1 lít.
– Giáo dục cho trẻ thói quen vệ sinh ăn uống: rửa tay trước khi ăn và sau khi đi đại tiện.
– Số bữa ăn: nên chia 4 bữa 1 ngày; 3 bữa chính một bữa phụ./.
Nguồn: Viendinhduong.vn